Việt Nam đặt mục tiêu thuộc nhóm 10 quốc gia có hệ thống GDĐH tốt nhất châu Á
Mục tiêu đến năm 2050, Việt Nam thuộc nhóm 10 quốc gia có hệ thống giáo dục đại học tốt nhất châu Á.
Đại biểu Vương Quốc Thắng (đoàn ĐBQH Quảng Nam).
Thảo luận tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV, đại biểu Vương Quốc Thắng (đoàn ĐBQH Quảng Nam) viện dẫn, Nghị quyết số 81/2023/QH15 của Quốc hội “Về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050” đặt mục tiêu phát triển giáo dục Việt Nam thuộc nhóm 10 quốc gia có hệ thống giáo dục đại học tốt nhất châu Á.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học với chính sách tự chủ đại học là khâu đột phá trong phát triển. Nhờ đó hệ thống giáo dục đại học đã có nhiều thay đổi, từ mô hình, cơ cấu tổ chức, hoạt động của cơ sở giáo dục đại học đã dần được xây dựng, định hướng theo các chuẩn mực quốc tế, phát huy tối đa năng lực tự chủ cùng với trách nhiệm giải trình.
Tuy nhiên, thành quả về nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo của giáo dục đại học vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của đội ngũ nhân lực nghiên cứu chiếm tới hơn 50% tổng nhân lực nghiên cứu ở Việt Nam.
Đại biểu Vương Quốc Thắng nhìn nhận, có nhiều nguyên nhân dẫn tới thực trạng này, trong đó có thể nêu một số nguyên nhân sau:
Thứ nhất, Luật Khoa học và Công nghệ quy định nhà nước bảo đảm chi cho khoa học – công nghệ từ 2% trở lên trong tổng chi ngân sách hằng năm. Tuy nhiên, báo cáo của Bộ Khoa học và Công nghệ năm 2023 chi sự nghiệp cho khoa học – công nghệ là hơn 12.000 tỷ đồng, chiếm 0,58% tổng chi ngân sách.
Trong đó, việc phân bổ ngân sách vẫn còn dàn trải, chưa vận hành tốt cơ chế đặt hàng, đầu tư cho hoạt động khoa học – công nghệ trung bình trên cán bộ còn thấp và chưa tương xứng.
Thứ hai, vẫn còn nhiều vướng mắc trong cơ chế quản lý về đề tài, dự án sử dụng nguồn ngân sách. Đặc biệt, việc thiếu cơ chế chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu, thiếu cơ chế giao cho đơn vị chủ trì sở hữu và định giá sản phẩm hình thành từ các nhiệm vụ khoa học.
Thứ ba, với các cơ sở giáo dục đại học tự chủ chi thường xuyên và chi đầu tư, kinh phí nghiên cứu từ nguồn ngân sách chỉ được cấp thông qua các đề tài, dự án nghiên cứu đơn lẻ.
Nguồn kinh phí tự có và kinh phí từ hoạt động hợp tác rất ít, trong khi thiếu cơ chế để huy động nguồn kinh phí từ doanh nghiệp và xã hội, các cơ sở giáo dục đại học chưa thể chú trọng thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo do phải tập trung duy trì hoạt động và tăng trưởng ngắn hạn thay vì thực hiện cam kết dài hạn về đào tạo trình độ cao và sản phẩm tri thức chất lượng.
Thứ tư, trong các cơ sở giáo dục đại học, chức năng nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo chưa được chú trọng đúng mực, nhiều cơ sở giáo dục đại học chưa lấy nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo làm động lực cho phát triển và làm nền tảng cho nguồn thu bền vững, vẫn còn thiếu công cụ đánh giá về hiệu quả thực hiện hoạt động khoa học – công nghệ của đội ngũ giảng viên.
Thứ năm, chưa có cơ chế đột phá để các cơ sở giáo dục đại học thu hút và sử dụng nhân tài là các nhà khoa học trẻ xuất sắc, các nhà khoa học lớn. Một mặt, hệ thống thang, bảng lương và nguồn thu hợp pháp hạn hẹp, không cho phép các cơ sở giáo dục đại học công lập xây dựng những vị trí việc làm với mức thu nhập vượt trội và chế độ ưu đãi đặc biệt.
Mặt khác, nhân tài được thu hút vào cơ sở giáo dục đại học công lập phải tuân thủ Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức nên bị gò bó về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn, thiếu tính chủ động và tính sáng tạo của đội ngũ này.
Minh Phong